CNTT4A2 COMMUNITY

Thảo luận học tập


You are not connected. Please login or register

Go downThông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

31/7/2011, 8:39 am
kienhl
kienhl

Đối tượng
Thứ nhất, tôi muốn truyền đạt kinh nghiệm của mình cho các bạn sinh viên vừa mới vào trường. Kể cả các bạn sang năm thứ hai cũng có thể tìm thấy những điều bổ ích ở đây. Ngoài ra, các bạn sinh viên năm thứ ba, thứ tư vẫn có thể cùng tôi chia sẻ những phương pháp được giới thiệu sau đây. Hy vọng bài viết này có thể giải đáp phần nào thắc mắc của các bạn: “Làm thế nào để học tốt Công nghệ thông tin?”
Thật ra, khái niệm “học tốt” nghĩa là gì?
Chúng ta hãy xét hai sinh viên A và B vừa mới tốt nghiệp: anh A tốt nghiệp với điểm số tuyệt vời, trong quá trình học đã tích lũy được rất nhiều bằng khen. Có thể có người cho rằng anh ta học gạo, rằng anh ta sống chết vì điểm số trong suốt bốn năm rưỡi qua, nhưng trong khi đó, anh B có điểm số không mấy ấn tượng. Anh ấy lý giải rằng thời gian được anh ấy dùng để đào sâu kiến thức chuyên ngành, kể cả những kiến thức bên ngoài phạm vi giảng dạy ở trường, nên anh ấy không quan tâm nhiều đến các kỳ kiểm tra. Đến đây cũng có thể có người cho rằng điểm số ấy sẽ khiến anh mất nhiều thời gian hơn đối với nhà tuyển dụng. Thật ra, bạn chỉ cần đạt được thành tích như một trong hai người trên đã là học tốt rồi. Nếu đạt được cả hai, bạn có thể tự hào rằng mình đã học “rất tốt”. Ngược lại, vì không có được cả hai điều, bạn trông đợi vào tấm bằng tốt nghiệp loại giỏi sẽ giúp mình đạt được một mục tiêu nào đó. Thế thì bạn đã học bình thường. Và cuối cùng, nếu bạn không có được bất kỳ điều nào trong ba điều kể trên, thì lẽ ra bạn cần suy nghĩ về chúng sớm hơn, và đã phải có một hành động nào đó để xoay chuyển tình thế. Bạn đang ở tình trạng báo động đấy!
Nguyên tắc quan trọng cần nhớ
Nếu phải đúc kết toàn bộ kinh nghiệm để thành công khi học ở khoa Công nghệ thông tin bằng một từ duy nhất, nhiều người sẽ không ngần ngại trả lời: “tự đánh giá”. Hoàn toàn chính xác. Ngoài ra, bạn cũng cần biết thêm hai nguyên tắc nữa, đó là “tự học” và “học nhóm”:
Nguyên tắc 1: Phải biết tự đánh giá mình:
Không ai trong chúng ta lại muốn rằng sau bốn năm rưỡi học ở đây, trình độ của mình so với lúc mới vào cũng chẳng khác là bao. Những viễn cảnh đen tối ấy hoàn toàn có thể xảy ra nếu bạn không có khả năng tự đánh giá bản thân mình.
Tự đánh giá mình trước hết là phải biết được năng lực thực sự của mình. Hãy luôn luôn tự tin để phấn đấu, nhưng đừng bao giờ nghĩ mình đã giỏi và dừng lại. Rất nhiều sinh viên đã sớm ngủ quên trên chiến thắng từ những học kì đầu tiên của bốn năm rưỡi đại học và kết quả là tình hình của họ trở nên tồi tệ hơn trong những năm tiếp theo.
Ngoài ra, tự đánh giá còn có nghĩa là biết mình đang ở đâu. Ngay học kỳ đầu tiên, có thể bạn sẽ cảm thấy thua thiệt so với một số bạn bè. Nhưng đừng than thở rằng trước kia (hồi phổ thông), bạn chưa được chuẩn bị về kiến thức tin học cơ bản, chưa từng học qua lập trình, chưa quen đọc sách tiếng Anh … Cũng đừng nản chí nếu bạn chưa có máy vi tính, chưa tiếp xúc với Internet. Đó là những suy nghĩ tiêu cực và sẽ làm giảm sức phấn đấu của bạn. Mọi sinh viên được tuyển vào khoa CNTT đều dựa trên năng lực của họ, hoàn toàn không căn cứ vào điều kiện hay kiến thức chuyên ngành sẵn có. Mọi người cùng học một chương trình, với một khối lượng thời gian như nhau, và hoàn toàn bình đẳng với nhau. Nếu bạn chưa có gì, tức là bạn giống như phần đông sinh viên. Còn nếu bạn đã có nền tảng về tin học, đấy là một thuận lợi nhất định, nhưng không bảo đảm bạn sẽ học tốt hơn như những người không có sự thuận lợi ấy.
Hơn thế nữa, tự đánh giá còn có nghĩa là biết được bản thân mình cần và không cần gì. Một năm học đại cương có thể làm bạn lo lắng không biết mình cần chuẩn bị gì để bước vào chuyên ngành. Đúng là chương trình đại cương không có những môn học mang tính chuẩn bị hoặc định hướng cho sinh viên. Theo kinh nghiệm của tôi, đây là lúc bạn nên cùng với những người xung quanh hỗ trợ nhau tìm ra hướng đi cho chính mình. Ngoài ra, bạn cũng nên tìm hiểu thêm từ sách báo, từ giảng viên, từ những sinh viên khóa trước. Nhưng quan trọng hơn hết là bạn phải dám đưa ra một quyết định chính xác mình sẽ chọn lựa hướng đi nào. Sau đó hãy cố gắng thực hiện nó, nếu cùng với những người bạn khác thì càng tốt. Có thể vài lần thất bại mới có thể giúp bạn tìm ra được điều mà mình thực sự cần. Đó là cách tốt nhất để thực hiện.
Nhưng một vấn đề không kém phần quan trọng là bạn phải biết nhận diện những gì thực sự không cần thiết và gạt hẳn chúng sang một bên. Ngành CNTT có rất nhiều lĩnh vực, muốn chuyên sâu vào một lĩnh vực nào đó đòi hỏi rất nhiều thời gian và công sức. Không chỉ riêng sinh viên ở khoa CNTT, mà hầu như rất nhiều bạn trẻ Việt Nam có khuynh hướng ôm đồm mọi thứ, kết quả là không tinh thông được thứ nào. Tinh thông ở đây có nghĩa là làm được việc trong lĩnh vực đó, hoặc có thể thích ứng nhanh với lĩnh vực ấy khi cần thiết. Biết nhiều mà chỉ hời hợt thì cũng giống như là không biết gì cả.
Nhiều bạn sinh viên băn khoăn khi nghe nói rằng các trung tâm đào tạo lập trình viên quốc tế như Aptech, Informatics, NIIT, … có chương trình đào tạo hiện đại và thực tế hơn rất nhiều so với trường đại học. Trong trường không dạy C/C ++ C/C#, Java, SQL Server, ASP, JSP, … thì làm sao mai mốt đi làm được. Nếu suy nghĩ như vậy tức là bạn đã chưa tự đánh giá đúng trình độ của mình. Bạn đang được đào tạo để trở thành kỹ sư, trong khi những nơi kia đào tạo các kỹ thuật viên. Không có cấp bậc nào là “cao cấp” hơn, bởi vì chúng phục vụ cho những mục đích hoàn toàn khác nhau. Các trung tâm đào tạo bạn cách sử dụng công cụ, còn trường đại học đào tạo bạn suy nghĩ về công cụ và tạo ra công cụ. Dĩ nhiên, bạn phải biết cách sử dụng công cụ trước. Những kiến thức này được giả định là bạn phải biết và không có môn học cụ thể nào về chúng. Nếu bây giờ bạn chưa biết thì phải tự học để mà biết. Trong trường hợp bạn không thể tự học, mà nhất định phải đi học ở các trung tâm, có thể bạn đã ôm đồm nhiều thứ một lúc. Đó là tình trạng mà báo chí thường than phiền: thầy không ra thầy, thợ không ra thợ.
Ngoài ra, tự đánh giá cũng có nghĩa là nhìn nhận mọi sự việc theo đúng bản chất của nó. Bởi vì kiến thức trong ngành CNTT thật rộng lớn mà trình độ của mọi sinh viên khi mới vào trường thì đều chưa cao, nên các sinh viên thường hay bị dao động bởi cái gọi là “nghe nói rằng”. Chẳng hạn: nghe nói rằng C++ rất khó nên chưa dám học. Nghe nói rằng Java chạy rất chậm nên chưa muốn học. Nghe nói rằng phần cứng rất “chua”, lại không đảm bảo việc làm trong tương lai, nên không muốn quan tâm. Nếu buộc phải học thì học một cách hời hợt.
Thậm chí, nghe nói rằng đề thi cuối kỳ sẽ lấy từ sách này nên đổ xô đi mua cuốn sách ấy. Thật là sai lầm. Bạn đang học ngành CNTT, thông tin là những gì có thể tăng sự chắc chắn về một vấn đề nào đó. Nhìn sâu xuống dưới, thông tin được thể hiện bằng hai con số: 0 và 1 (không và có). “Nghe nói rằng” là những gì hoàn toàn không chắc chắn. Đừng để chúng điều khiển bạn.
Một biểu hiện quan trọng của tự đánh giá là phải biết lắng nghe và đưa ra ý kiến của mình. Ở khoa CNTT, biểu hiện của người thiếu tự tin là không dám nghe người thực sự am hiểu nói (mà chỉ quan tâm đến những cái “nghe nói rằng”), trong khi biểu hiện của người tự mãn là luôn nhận định đúng hoặc sai ngay khi người khác chưa trình bày xong vấn đề. Ví dụ mẩu đối thoại sau:
A. đoạn mã này có thể được viết bằng Java …
B. không thể nào, bởi vì một chương trình viết bằng Java chạy chậm hơn viết bằng C++ đến 10 lần, phải viết bằng C++
A. (chưa kịp nói) bởi vì thời gian để thực hiện đoạn mã này chỉ chiếm 10% tổng thời gian thực hiện chương trình nên nó không nhất thiết là nơi cần phải tối ưu hóa tốc độ. Hơn nữa, nó được chạy trên máy chủ có tốc độ nhanh gấp 10 lần so với máy thường. Cuối cùng, đối với đoạn mã này thì dùng Java có thể rút ngắn thời gian viết code và debug hơn so với dùng C++ xuống còn một nửa.
Trong cả hai trường hợp, không biết lắng nghe sẽ làm cho bạn không tiếp thu được kiến thức từ những người khác. Ngược lại, khi đã lắng nghe xong, bạn phải có ý kiến của riêng mình. Một phong cách đáng chán của sinh viên CNTT là không bao giờ phát biểu, dù chỉ là đúng hoặc sai, khi giảng viên hỏi. Sau đây là một ví dụ:
Thầy giáo hỏi: “Ai cho rằng cách này đúng?” … Có khoảng 5% giơ tay
Thầy giáo hỏi: “Ai cho rằng cách này đúng?” … Có khoảng 5% giơ tay, trong đó 2% là những người giơ tay lần đầu, hơn 90% còn lại là cả một sự bí hiểm!
Có thể bạn không biết gì cả, hoặc đã biết nhưng không thèm giơ tay vì chúng quá tầm thường. Khi đó, nên nghĩ lại xem bạn có mặt ở lớp học làm gì, bởi vì kiến thức quá cao siêu hoặc quá tầm thường đều cho thấy bạn đã không thích hợp với chúng. Ngược lại, nếu chỉ vì bạn đã đánh giá sai về chúng, hãy tự đánh giá lại cho chính xác.
Cuối cùng, tự đánh giá có nghĩa là biết nhận lấy thất bại. Khó có ai học suốt bốn năm rưỡi mà chưa bao giờ bị điểm dưới trung bình, cũng có khi bạn thua kém bạn bè ở chính sở trường của mình, hoặc liên tiếp nhận các thất bại khiến bạn nghi ngở khả năng của chính mình. Có người đã từng học môn Lý A1 đến 3 lần mới qua được. Người ấy vẫn còn nhớ cảm giác chua xót khi bạn bè tung tăng chuẩn bị vào chuyên ngành thì mình vẫn phải lầm lũi làm luận án “tiến sĩ” về Lý A1. Hay như một người khác đa từng rớt môn Giáo dục quốc phòng, môn học mà ai cũng cho rằng không thể rớt. Nhưng quan trọng là bạn phải cảm thấy mạnh mẽ hơn sau những cú ngã tê tái đó.
Sau đó hãy nhận lấy thất bại, từ đó bạn sẽ biết cần cải thiện phong độ hay đẳng cấp của mình. Còn nếu bạn vẫn ủ rũ chẳng biết làm gì, hoặc ngược lai, bạn cố nghĩ ra những lý do khách quan để không phải nhìn vào thực chất vấn đề, có thể bạn sẽ nhận thêm một kết quả tồi tệ hơn thế nữa.
Tóm lại, bạn cần phải biết mình đang đứng ở đâu và nên đi về hướng nào. Có như vậy bạn mới xác định được mình vừa tiến bộ hay thụt lùi. Tất cả những điều trên hoàn toàn là do bạn tự đánh giá lấy.
Nguyên tắc 2: Tự học để đi tiếp con đường phía trước:
Nếu chỉ xét khoảng thời gian bốn năm rưỡi (hay nhiều hơn) ở khoa CNTT, tự học chưa hẳn là điều quan trọng nhất. Nhưng nếu xét đến cả một sự nghiệp trong thời gian dài, đây là điều phải nêu đầu tiên.
Đặc thù của ngành CNTT là kiến thức thay đổi rất nhanh. Phần cứng, cụ thể là vi xử lý, phát triển theo định luật Moore, cứ mỗi 18 tháng thì tốc độ CPU tăng gấp đôi. Đây là sự phát triển cực nhanh nếu so với những ngành nghề khác. Nhưng đó cũng chưa phải là lĩnh vực có tốc độ phát triển nhanh nhất. Phần mềm còn phát triển nhanh hơn, bởi vì bạn luôn thấy phần cứng ra đời là để đáp ứng nhu cầu của phần mềm.
Vậy bạn phải làm gì để theo kịp tốc độ đó? Chỉ có thể là tự học. Nhà trường chỉ có thể hỗ trợ cho bạn phần nền tảng (mặc dù hiện tại nhà trường cũng phải cải cách nhiều mới có thể thực hiện được đầy đủ nhiệm vụ này), còn bạn phải tự hướng dẫn mình đi trên con đường riêng.
Một vấn đề thắc mắc muôn thuở của các sinh viên năm thứ nhất là tại sao nhà trường không dạy những kiến thức như C++, Java, ASP, JSP, PHP, Access, SQL Server …? Câu trả lời là bạn phải tự trang bị cho mình những kiến thức này. Ngoài ra để có được những kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp, anh văn chuyên ngành … bạn cũng phải tự học là chính; nhà trường chỉ có thể hỗ trợ bạn phần nào. Tóm lại, sẽ có những kiến thức mà không một ai có thể dạy bạn. Không ai khác có thể chỉ rõ từng bước để bạn có thể nghiên cứu ra một công trình khoa học hoàn toàn mới, không ai khác có thể rèn luyện cho bạn kỹ năng lập trình thuần thục, không ai khác có thể giúp bạn mọi việc để dựng nên một công ty phần mềm … Người đó chỉ có thể là bạn.
Nhưng phải tự học thế nào? Bạn là người thầy giáo tốt nhất, và sách cùng với nguồn tài liệu từ Internet, CD, thư viện … là phương tiện để người thầy đó truyền đạt kiến thức cho bạn.
Một số người nhìn vào các giáo trình tin học dày cộm và lắc đầu: “Đọc hết sao nổi!” Đúng vậy, ít ai có thể đọc toàn bộ cuốn sách đó. Chúng ta chỉ nên đọc những phần mà ta cảm thấy cần thiết vào thời điểm nhất định. Ngoài ra, ta cũng nên xem lại những sách mà mình đã đọc qua bởi vì có thể ở những lần đọc sau này, ta mới hiểu ra được vấn đề mà cuốn sách muốn trình bày.
Dĩ nhiên, việc tự học sẽ chỉ hiệu quả nếu tìm được những cuốn sách tốt. Cách đọc sách và tìm sách để đọc là một vấn đề không đơn giản. Hy vọng trong thời gian tới, các bạn sẽ có thể tìm được những tư vấn hợp lý nhất trong “Cẩm nang DIT FAQs”. Đừng than thở rằng mình thiếu tốn tài liệu, thiếu tiền bạc để mua tài liệu nên không thể tự học được; cái thiếu ở bạn chính là tinh thần ham học hỏi và một lòng dũng cảm để thừa nhận và vượt qua sự thiếu thốn đó.
Nguyên tắc 3: Những lợi ích của việc học nhóm:
Việc các bạn có thể tự đánh giá tốt bản thân, biết mình ở đâu và phải làm gì, rồi ra sức tự học để không ngừng nâng cao năng lực bản thân đã là một thành công lớn lao; tuy nhiên, các bạn sẽ thành công hơn nữa nếu các bạn biết liên kết lại.
Học nhóm được đề cập rất nhiều ngay từ thời chúng ta còn học phổ thông. Nhưng vào thời điểm đó, học nhóm hay không học nhóm, điều đó không mấy khác biệt. Có khác biệt chăng là ta có nhiều cơ hội để chơi đùa với nhau hơn. Nhưng môi trường học đại học thì học nhóm là một yếu tố vô cùng quan trọng. Hầu hết mọi sinh viên chúng ta đều chơi trong ít nhất một nhóm bạn nào đó. Hiểu một cách đơn giản, bạn bè là những người có chung một sở thích, suy nghĩ nào đó khiến họ kết hợp lại với nhau. Từ đó ta có thể nhận ra trong khoa CNTT có những hình thức kết bạn như sau:
Xét về quê quán, có nhóm Quảng Nam, Tiền Giang, Sài Gòn …
Xét về nơi ở, có nhóm KTX, nhóm ở chung phòng trọ …
Xét về trường phổ thông, có nhóm Lê Hồng Phong, nhóm Ngô Quyền …
Xét về giới tính, có nhóm các bạn nữ, nhóm các bạn nam, nhóm các bạn nam hiền hiền, nhóm các bạn nam nghịch ngợm …
Xét về giải trí có nhóm FIFA, CF, Đế chế …
Xét về ăn uống, có nhóm lẩu gà, nhóm C2 …
Xét về tình cảm, có nhóm đã lập gia đình, có nhóm đang cặp kè …
Xét về sinh hoạt xã hội, có nhóm Mùa hè xanh, nhóm làm web, nhóm Cán bộ lớp …
Ngoài ra, có nhóm những người quen nhau lúc vừa vào đại học, nhóm cầu lông, nhóm văn nghệ …
Tất cả các nhóm trên, nhóm nào cũng có cái hay của riêng nó. Đời sinh viên của bạn cũng nên “nếm trải” qua mùi vị của vài nhóm. Nếu bạn đang ở trong một nhóm anfo đó thì sẽ thật tuyệt vời nếu bạn có thể đưa nhóm mình từ hình thức hiện tại trở thành nhóm những người bạn cùng học tốt ở khoa CNTT.
Đạt được điểm số cao không phải là một nhiệm vụ bất khả thi:
Hỗ trợ nhau trong học tập sẽ đem lại những lợi ích lớn lao cho mỗi thành viên. Thứ nhất, đây là cách thức hiệu quả nhất để bạn có được kết quả cao trong học tập. Có một số người rất thông minh nhưng thi cử lại rất lận đận. Có một số người rất chăm chỉ, nhưng kết quả cũng không được như ý. Bởi họ chưa biết cách học và thi cho thật tốt. Bí quyết đơn giản nhất để có được kết quả cao trong các kỳ thi ở trường là phải “luyện” thật nhiều. Luyện gì ư? Hãy luyện các đề thi. Bạn có thể tìm thấy đề thi các năm trước ở các tiệm photo trong trường. Xem qua chúng và giải các bài trong đó với phương châm: nhiều hơn, nhanh hơn và chính xác hơn. Nghe qua thì có vẻ dễ dàng và đơn giản quá, nhưng thật ra không có nhiều người có thể làm được.
Nhiều người hăm hở đi tìm các đề thi cũ ngay từ những tuần đầu tiên của học kỳ. Thế rồi, lòng kiên nhẫn của họ sớm bị thử thách vì có quá nhiều đề thi trong đó. Một bộ đề thi có từ 5 đến 15 đề, mỗi đề có từ 4 câu hỏi trở lên, nếu là đề thi trắc nghiệm thì còn nhiều hơn nữa. Nên nhớ rằng một học kỳ lý tưởng (nghĩa là không phải trả nợ môn nào) cũng có ít nhất 7 môn học. Bỏ đi những môn lý thuyết thuần túy, rồi làm một phép nhân đơn giản, cũng dễ thấy rằng môt cá nhân không thển ào giải được phân nửa số lượng đề thi đó. Hơn nữa, làm sao người đó chắc chắn rằng những gì mình làm là đúng. Các đề thi đều không có đáp án (mà có thì cũng đừng tin tưởng hoàn toàn vào chúng). Và bởi vì phải làm ngày làm đêm mà vẫn chưa hết, họ sẽ không có thời gian để hệ thống hóa, rút ra những kỹ thuật giúp làm bài nhanh hơn. Thế đấy, họ đã làm không nhiều, không nhanh và cũng không chính xác. Rồi đến ngày thi, họ có thể bị sốc vì gặp phải một vấn đề hoàn toàn mới lạ, không làm kịp vì không “quen tay”, hay làm rồi mà không biết mình sai hay đúng. Đây cung là một trong số những lý do vì sao điểm số ở khoa CNTT thường rất thấp. Nếu bạn chỉ trông cậy vào sự thông minh của mình và trông cậy vào sự rộng lượng của giáo viên, tức là bạn đã phó thác kết quả học tập của mình cho sự may rủi.
Thay vì vậy, hãy tập hợp thành những nhóm nhỏ và cùng nhau học thi. Từng người trong nhóm sẽ đảm nhận 2, 3 môn. Đối với từng môn, người đó sẽ chịu trách nhiệm hệ thống lại kiến thức của toàn môn học, nhấn mạnh những điểm quan trọng. Ngoài ra, cũng cần phải giải hết các đề thi, sau đó chọn lựa những bài “tinh hoa” nhất rồi đề nghị những người còn lại giải qua. Như vậy, bất kì người nào trong nhóm cũng có cơ hội giải qua tất cả các dạng bài tập. Hiển nhiên, điều quan trọng là làm quen được càng nhiều dạng bài tập càng tốt, chứ không phải số lượng bài tập đơn thuần. Sau đó, những người trong nhóm sẽ trao đổi kết quả với nhau. Điều này sẽ giúp các thành viên biết được mình đã làm đúng hay chưa. Dĩ nhiên, kết quả cuối cùng của nhóm không hẳn đã là kết quả đúng. Nhưng đó chắc chắn là kết quả tốt hơn rất nhiều so với một người làm. Ngoài ra, cũng phải xét đến yếu tố xác suất, kết quả của một nhóm 3, 4 người thường là kết quả tốt nhất trong số các kết quả của 200 người cùng khóa. Vì vậy, bạn không sợ rằng điểm thi của mình thấp hơn bất kỳ ai.
Tóm lại, hình thức học thi tốt nhất là mỗi người tự tổng hợp kiến thức và tự giải đề thi ở nhà rồi cùng gặp nhau ở một số buổi. Trong những buổi này, ngoài việc cùng nhau hệ thống hóa các kiến thức và trao đổi kết quả, các thành viên còn chỉ bảo cho nhau những kỹ thuật đặc biệt giúp tăng tốc, hoặc giảm thiểu sai sót khi làm bài. Chúng tôi thường tổng hợp các vấn đề này thành các tài liệu rồi trao đổi với nhau. Một lợi ích không thể không nhắc đến của việc cùng học thi là nó sẽ thúc đẩy các thành viên chăm chỉ hơn. Sự ganh đua và hợp tác sẽ giúp mọi người cảm thấy việc giải một số lượng lớn các bài tập trong một thời gian ngắn đỡ nhàm chán hơn so với khi làm một mình.
Đạt được kết quả cao hơn trong các kỳ thi chỉ là một lợi ích dễ thấy nhất của việc học nhóm, lợi ích lâu dài của nó là giúp các bạn cùng nhau trang bị cho mình những kiến thức cần thiết mà bạn phải tự học như đã trình bày ở phần trên.
Nhóm học tốt giúp tiếp thu kiến thức hiệu quả hơn:
Nếu học tập hơn bốn năm trời ở khoa CNTT mà chỉ có chăm chăm luyện giải bài tập đề thi thì không còn gì khốn khổ bằng. Hãy tranh thủ những khoảng thời gian trống nhiều nhất có thể để trau dồi thêm những kỹ năng mà bạn nghĩ là cần thiết. Ngay cả những sinh viên đạt điểm số cao nhất ở khoa CNTT cũng chỉ dành tổng cộng tối đa là 6 tuần trong một học kỳ để tập trung học thi. Mà một học kì có đến 15 tuần, cộng thêm 3 – 4 tuần dành cho thi cử. Ngoài ra chưa kể đến khoảng thời gian nghỉ hè và nghỉ Tết. Như vậy, dù cho thi cử có là sự đối phó đối với bạn, thì bạn vẫn còn rất nhiều thời gian để học và làm những gì mà bạn cho rằng thật sự cần thiết.
Tóm lại, ngoài điểm số, ranh giới giữa một sinh viên học tốt và một sinh viên học chưa tốt còn nằm ở chỗ ai biết tận dụng khoảng thời gian rộng dài này. Một nhóm học tập hoạt động hiệu quả sẽ giúp các thành viên biết làm đúng việc vào đúng thời điểm.
Hãy lấy một ví dụ, câu hỏi “Tôi nên học ngôn ngữ lập trình nào đây?” là thắc mắc thường thấy của sinh viên năm thứ nhất, thứ hai. Nếu chỉ có một mình, bạn có thể sẽ loay hoay mãi với câu hỏi này, hoặc sự lựa chọn của bạn là không chính xác, hoặc bạn đã học được đúng ngôn ngữ cần thiết nhưng chưa đạt đến mức độ sâu kiến thức. Giáo viên hay những sinh viên khóa trên cũng có thể giúp đỡ, nhưng sẽ không hiệu quả bằng bạn bè cùng giúp đỡ lẫn nhau. Bởi người hiểu khả năng của bạn nhất chính là bản thân bạn, người thứ hai là người thường xuyên làm việc với bạn. Người giỏi cách mấy nhưng không hiểu về bạn thì khó có thể đưa ra một lời khuyên phù hợp được.
Thực ra rất khó để đưa ra một phương pháp cụ thể để hướng dẫn một nhóm đi đến thành công. Có lẽ cách tốt hơn là chúng ta nêu ra những kinh nghiệm và những nguyên tắc cơ bản:
Thứ nhất, mọi hoạt động phải có mục tiêu rõ ràng:
“Chúng ta sẽ học Java trong học kỳ này” là một mục tiêu. Nhưng chưa rõ ràng. Học Java để làm gì? Làm sao chắc rằng chỉ cần một học kỳ là xong? Học xong rồi thì làm gì tiếp? Học như thế nào đây? Nhiều nhóm bắt đầu với một mục tiêu như trên, nhưng rồi không xác định được những việc làm cụ thể để rằng buộc các thành viên. Thế rồi học kỳ này trôi qua một cách nhanh chóng. Sang học kỳ mới, mục tiêu đổi thành: “Chúng ta sẽ cố gắng học Java trong học kỳ này”. Lại một học kỳ trôi qua. Đến học kỳ tiếp, mục tiêu mới sẽ là “Chúng ta sẽ học C# trong học kỳ này”. Repeat … Until 3 > 5
“Chúng ta sẽ viết một chương trình tương tự như Address Book của Windows, viết bằng Java”. Đây là một mục tiêu rõ ràng hơn. Do đó, nó có khả năng đưa nhóm đến thành công nhanh và thành công cao hơn. Nhưng chưa đủ, cần làm rõ hơn nữa. Cho đến khi nào các thành viên cảm thấy rằng việc học Java cũng thúc ép như việc thi học kỳ, tức là nhóm đã tạo ra được một môi trường hiệu quả cho các thành viên cùng học tập.
Thứ hai, phải kiên trì:
Bất kỳ nhóm học tập nào cũng gặp khó khăn, không sớm thì muộn. Có thể là do khó khăn của riêng một cá nhân, chẳng hạn không đủ thời gian, chưa đủ trình độ, không hợp tính cách … Cũng có thể cách tổ chức nhóm chưa hiệu quả. Cho dù hoàn cảnh có thất vọng thế nào đi nữa, hãy cố gắng tiến liên. Vì nếu bỏ cuộc, bạn chỉ còn lại hai lựa chọn: hoặc là tập trung hoàn toàn vào việc học vì điểm số, nó không thú vị lắm đâu; hoặc là buông xuôi tất cả, nghĩa là cuộc đời sinh viên của bạn đã chấm hết.
Cuối cùng, nếu một người trong nhóm nản chí, bạn hãy truyền sự kiên nhẫn của mình cho người đó. Đây là lợi ích lớn nhất và cũng là duy nhất mà việc học một mình không thể có được. Edison từng nói: “Nhiều người bỏ cuộc ngay khi họ ở cách sự thành công một khoảng rất ngắn”. Sự động viên, giúp đỡ, ganh đua lẫn nhau trong nhóm tạo nên động lực mạnh mẽ cho các thành viên. Theo tôi, một nhóm học tập xuất phát từ nhóm những người bạn thân thường dễ xây dựng được những giá trị này hơn.
Hãy liên kết lại:
Nếu bạn đang lẻ loi và cảm thấy mình học chưa tốt, hãy tìm những người bạn. Nếu bạn đang lẻ loi nhưng tin rằng mình đang học tốt, bạn vẫn nên tìm những người bạn để có thể học tốt hơn. Hầu như những nhân vật thành công trong ngành CNTT đều có những người bạn cũng thành công không kém, họ đã cùng học tập và làm việc với nhau suốt thời tuổi trẻ: Bill Gates và Paul Allen ở Microsoft, Jerry Yang và David Filo ở Yahoo!,…
Một nhóm học tập có hiệu quả được đánh giá qua một tiêu chuẩn duy nhất: nhóm ấy có giúp các thành viên hài hòa cả đối nội (học các môn trong trường và có điểm số tốt) lẫn đối ngoại (học những kiến thức vốn rất rộng lớn trong ngành CNTT). Nói cách khác, nhóm ấy có giúp thành viên học tốt hơn hay không.
Và nên nhớ rằng, tập hợp những người học tốt lại với nhau không phải là cách để thành lập nhóm học tốt; ngược lại, nhóm học tốt là nhóm mà nhờ chơi với nhau, những người học yếu được nâng lên học trung bình; những người học trung bình nâng lên học giỏi.
Phương pháp học tập tốt cần phải được chia sẻ
Mặc dù học tập ở khoa CNTT không phải là điều dễ dàng, nhưng ở khoa CNTT luôn xuất hiện các nhân tài, họ chính là những sinh viên đã học tốt trong bốn năm rưỡi ở đây. Chắc chắn, họ đã có những phương pháp hiệu quả giúp học tốt ở khoa CNTT, và đó là những kinh nghiệm quý báu cho những sinh viên đàn em.
“Làm thến ào để học tốt Công nghệ thông tin?”
Hầu hết mọi sinh viên khi mới vào học ở khoa CNTT đều đặt câu hỏi trên. Ngoài ra, sinh viên còn thường đặt các câu hỏi khác, chẳng hạn: “Nên bắt đầu học ngôn ngữ lập trình nào?”, “Tổ chức học nhóm ra sao cho hiệu quả?”, “Ở khoa CNTT có những chuyên ngành nào?”, “Có nên yêu trong khi đang học ở khoa CNTT hay không?” … Những câu hỏi trên được nêu ra từ thế hệ này qua thế hệ khác. Cùng một câu hỏi thường có nhiều cách trả lời khác nhau, nên các sinh viên, nhất là những bạn mới vào trường, càng trở nên bế tắc hơn vì không biết phải dựa vào đâu. Ngược lại, cùng một câu hỏi nhưng nhiều khi giảng viên phải mất thời gian giải đáp cho nhiều sinh viên khác nhau. Vấn đề cứ lặp đi lặp lại nhiều lần gây tốn kém thời gian rất nhiều.
Mọi người đều mong muốn có một phương tiện nào đó có thể lưu trữ các câu hỏi thường gặp ở khoa CNTT, kèm theo các câu trả lời xác đáng. Chúng sẽ được lưu trữ để dễ dàng tìm đến khi có yêu cầu. Và chúng ở đâu, chính ngay ở những sinh viên khóa trước, những người mà đã từng thắc mắc những câu hỏi như trên, và đã từng được nghe, hiểu và ngẫm nghĩ câu trả lời.
5 căn bệnh phổ biến của sinh viên khoa CNTT
Học tập ở khoa CNTT không phải là việc dễ dàng. Nếu không cẩn thận, bạn có thể sẽ mắc phải các căn bệnh sau đây:
Bệnh than:
Đây không phải là căn bệnh từng gieo rắc kinh hoàng cho nước Mỹ, mà là bệnh than thở. Hầu như mọi sinh viên ở khoa CNTT đều mắc bệnh này. Hãy nghe họ than thở những gì:
Than rằng học ở đây chán quá, khó quá, không thiết thực quá. Nhưng họ lại không trả lời được giảng dạy thế nào để họ không chán, không khó, thiết thực hơn. Họ lại thường so sánh với các trường ngoài, trung tâm bên ngoài, và cả nước ngoài. Vậy thì tại sao họ lại ở đây nhỉ?
Than rằng học mấy năm rồi mà chẳng thấy tiến bộ.
Than rằng không biết làm gì khi ra trường. Thế thì họ đã làm những gì khi ở trong trường?
Họ than thở những điều trên từ học kỳ này sang học kỳ khác, khóa này sang khóa khác.
Bệnh nhát:
Thường thì sinh viên than thở về một môn học nào đó thì cũng sẽ gặp ngay môn đó. Chẳng hạn, bạn than rằng phần cứng rất “oải” thì y như rằng sẽ gặp đồ án phần cứng. Lúc này thì bệnh than biến chứng trở thành bệnh nhát.
Mắc bệnh nhát thì không dám làm điều gì đang ở ngay trước mắt. Không làm nghĩa là chết, nhưng vẫn không dám làm. Có thể nói, họ thà chết chứ không chịu hy sinh. Chẳng hạn, vừa nghe nói môn Toán rời rạc là môn “sát thủ”, họ đã buông súng ngay từ tuần lễ đầu tiên của học kỳ. Thế là rớt cả lũ, họ lại truyền đạt điều trên cho các đàn em yếu bóng vía …
Hoặc, có quá nhiều lựa chọn nên cũng không dám chọn và làm một cái nào. Cuối cùng thì loay hoay mãi không biết mình nên chuyên phần cứng hay phần mềm, nên học C++ hay Java. Nếu họ chịu làm điều gì đó thì dù chưa chọn được đúng ý mình, trong trường hợp xấu nhất họ cũng biết được rằng mình không phù hợp với phần cứng, cũng không phù hợp với C++. Bây giờ thì còn Java để thử tiếp.
Bệnh hời hợt:
Nhưng nếu bị buộc phải chọn lựa do hoàn cảnh thúc ép, họ sẽ làm một cách hời hợt. Chẳng hạn, nhận phải một đồ án xương xẩu, họ nghĩ thôi thì làm qua loa cho xong rồi học kỳ sau sẽ tìm được cái ngon hơn. Ai chắc rằng sẽ có cái ngon hơn, hay lại phải gặp cái mà họ cứ cho là xương xẩu? Làm qua loa thì mãi sẽ không bao giờ thoát được cái vòng luẩn quẩn đó, nó còn tước mất cơ hội để mình thấy được điều đó thật ra cũng không xương xẩu như mình nghĩ.
Bệnh hời hợt ngăn cản ta đạt đến đỉnh cao trong một môn học nào đó. Nếu học một môn học mà việc kết quả cao, thấp, đậu, rớt, chương trình học, bài tập lớn không làm bạn có bất kỳ cảm xúc nào, chỉ đơn giản là đã qua được nó, thì bạn đã đánh mất cơ hội của mình. Cần nhớ rằng, giáo trình học, giảng viên môn học đó có thể chưa làm bạn hài lòng, nhưng bản thân môn học đó là thực sự cần thiết. Học hời hợt chỉ vì không hợp với giảng viên, điều đó có nên hay không?
Bệnh la lối:
Bệnh này thường xuất phát từ bệnh hời hợt, nó cũng tương tự như bệnh than nhưng sự bộc lộ phát rất dữ dội. Sau khi loay hoay mãi trong cái vòng luẩn quẩn trên, họ kết tội cái đồ án đã làm hại họ, bộ môn này đã kìm hãm họ, nhà trường đã không tạo môi trường thuận lợi cho họ. Thế mà, họ không nhìn xem những người khác đã làm gì để không rơi vào tình trạng như họ, hoặc những người khác đã làm gì để vượt qua tình trạng đó.
Bệnh la lối là nguy hiểm nhất. Nó hủy hoại người bệnh một cách tàn khốc. Bệnh này cũng khó chữa nhất, nhất là khi nó đã vào thời kỳ cuối, ăn sâu vào tính cách của mỗi người.
Bệnh lười:
Bệnh này là nguồn gốc gây ra 4 căn bệnh đã kể trên. Lười biếng tức là đã tự đặt mình vào tình thế bị động. Không thường xuyên làm bài tập sẽ làm cho kết quả thi thấp, thậm chí bị rớt. Không chịu đọc sách, không chịu mày mò sẽ làm cho kiến thức nghèo nàn đi. Và thế là mắc phải bệnh than. Cũng vì lười biếng mà bệnh than chuyển thành bệnh nhát, rồi bệnh hời hợt, bệnh la lối. Bệnh lười lại dễ lây nhất. Mình lười biếng sẽ làm cho bạn của mình bị ảnh hưởng theo. Ngược lại, bạn mình siêng năng thì mình cũng siêng năng hơn.
Tránh xa những căn bệnh trên
Thường xuyên tự chuẩn đoán để biết mình đang mắc phải bệnh gì, rồi tìm cách chữa trị chúng. Nhưng nguyên tắc quan trọng là: phòng bệnh hơn chữa bệnh. Để phòng bệnh, hãy làm như sau:
- Luôn suy nghĩ tích cực, đông thời chuẩn bị những điều bất lợi sắp tới
- Khi chúng đến, đánh giá chúng
- Chấp nhận chúng
- Suy nghĩ tích cực để có thể “mổ xẻ” chúng
Bạn cần có một kế hoạch ngay từ đầu
Việc học tập được hoạch định và tổ chức sẽ giúp ích bạn rất nhiều trong suốt thời gian ở khoa CNTT. Cụ thể, bạn cần xây dựng cho mình một kế hoạch học tập, trong đó trình bày những mục tiêu mà bạn phấn đấu đạt được, khả năng của bạn, những việc mà bạn cần làm và thời gian dành cho chúng.
Bản kế hoạch này sẽ giúp bạn có phương hướng rõ ràng trong học tập. Nó chỉ cho bạn biết những thứ bạn cần học ở thời điểm hiện tại, điều gì chưa cần quan tâm ngay vào lúc này, nó còn đưa bạn vào một khuôn khổ để bạn chuyên cần hơn. Thiếu bản kế hoạch, bạn dễ bị rơi vào tình trạng hoang mang, chẳng biết học gì, làm gì ở khoa CNTT.
Đối với những sinh viên có tổ chức, học kỳ bắt đầu từ thời điểm trước đó khoảng hai tuần. Đây là thời điểm họ xây dựng kế hoạch cho học kỳ sắp tới. Ngược lại đối với những sinh viên chưa có tổ chức, học kỳ mới bắt đầu thứ tuần thứ hai hay thứ ba trở đi, thậm chi là tuần thứ bảy (tức là tuần trước khi thi giữa kỳ). Họ không có kế hoạch cho từng môn, để rồi hàng tuần cứ đến lớp rồi về nhà mà không ôn luyện gì cả. Đến lúc gần thi thì mới vắt giò lên cổ mà chạy. Thường thì lúc đó đã quá trễ, kể cả với nhưng người vốn được đánh giá là thông minh nhất, nhưng một người không có tổ chức thì làm sao có thể gọi là thông minh được?
Kế hoạch cần phù hợp với hoàn cảnh và nên linh động
Ở đây, tôi xin giới thiệu qua vài kinh nghiệm khi lập kế hoạch học tập. Một sinh viên A phác thảo bản kế hoạch ngay từ năm đầu tiên như Bảng 1.

Nhận xét: bản kế hoạch này cho thấy sinh viên A rất có tham vọng học tốt ở khoa CNTT. Nó có tác dụng tạo tâm lí thuận lợi cho A trong thời gian đầu. Nhưng, nó không thể là bản kế hoạch mà A có thể tuân theo trong suốt bốn năm rưỡi ở khoa CNTT được.
Bởi vì A đặt quá nhiều giả định mà mình không biết chắc chắn vào trong bản kế hoạch. Thứ nhất, đó là giả định về thời gian. A chưa từng học qua VB, C, C++, Linux thì làm sao biết được chỉ cần một học kỳ để lĩnh hội được từng nội dung. Dĩ nhiên, có thể chống chế rằng đây chỉ là ước lượng, có thể không chính xác. Nhưng điều gì xảy ra nếu như sự ước lượng này thực sự không chính xác? Giả sử, không thể học C trong 1 học kỳ mà phải kéo dài thành 2 học kỳ, vậy cũng phải dời việc học C++ trễ 1 học kỳ là ít nhất. Rồi việc tìm hiểu Linux ở học kỳ tiếp sẽ như thế nào? Trường hợp này giống như xếp Domio, bạn chỉ cần đẩy nhẹ một con domino, tất cả sẽ sụp đổ ngay theo một dây chuyền.
Thứ hai, giả định về công việc cũng không chính xác. Theo kế hoạch, ít nhất là hai năm nữa thì A mới bắt đầu học Java. Trong ngành CNTT, hai năm có thể chứng kiến rất nhiều thay đổi. Có thể vào thời điểm đó, C# đã hoàn toàn lấn lướt Java thì sao?
Thứ ba, giả định về mối quan hệ giữa các công việc không hợp lý. A nghĩ rằng cần học mạng máy tính trước rồi mới học lập trình web, học lập trình C trước rồi mới lập trình C++. Thực tế, không hẳn phải học xong môn này mới có thể học môn khác, mà có thể học chúng một cách song hành. Ngược lại, có một số môn tiên quyết cần thiết cho A mà A đã bỏ qua vì không biết đến chúng.
Cuối cùng, bản kế hoạch này có quá nhiều rủi ro. Nó giống như một lịch phát sóng chương trình truyền hình, không thể thêm vào hoặc bớt ra một mục nào khi đã tiến hành. Nếu có thay đổi, dù nhỏ, thì toàn bộ kế hoạch sẽ thay đổi theo toàn bộ. Lúc đó, nó là một bản kế hoạch hoàn toàn khác. Ai mà biết được A sẽ phải soạn thảo bao nhiêu bản kế hoạch thế này trong suốt bốn năm rưỡi (hoặc hơn) ở khoa CNTT? Liệu A có thể thực hiện được đúng theo một bản nào không?
Một bản kế hoạch càng ít thay đổi trong suốt quá trình thực hiện thì càng tốt. Nhưng cuộc đời thì luôn biến đổi! Do đó, cách đối phó là bạn phải chia bản kế hoạch của mình ra làm hai phần: một phần không thể thay đổi (hoặc khó thay đổi) và một phần luôn thay đổi.
Trở lại trường hợp của A, điều gì là không thay đổi? Đó là những môn học của A, bởi vì mọi sinh viên ở khoa CNTT đều phải học theo một khung chương trình. Đó còn là Anh ngữ, là kỹ năng lập trình một ngôn ngữ nào đó, là kinh nghiệm làm việc thực tế. Bên cạnh đó, thời gian dành cho những công việc trên cũng được giới hạn. A không thể có nhiều hơn quá 6 – 7 năm để hoàn thành các môn học ở khoa CNTT, A cũng cần giới hạn thời gian 2 năm cho việc học Anh ngữ từ trình độ sơ cấp lên trình độ cao cấp.

Bảng 2 – Liệt kê những điều không biến đổi

Nhiệm vụ của Bảng 2 là phác thảo nên một bộ khung của toàn bộ kế hoạch học tập của A. Với những gì chắc chắn, A điền vào, những gì chưa chắc chắn, A sẽ bổ sung vào sau. Chẳng hạn, còn quá sớm để A xác định xem sẽ làm gì trong những năm thứ hai, thứ ba … Bảng 2 cũng là một bản kế hoạch dài hạn. Chỉ có một bản kế hoạch dài hạn duy nhất trong suốt quá trình học. Nó cũng sẽ được cập nhật thường xuyên để phản ánh chính xác tiến độ học tập của A.
Song song với bảng 2, A cũng cần một bản kế hoạch khác, đó là bản kế hoạch của từng học kỳ. Bản kế hoạch này nêu cụ thể những mục tiêu, công việc mà A phải đạt được trong học kỳ. Chẳng hạn, Bảng 3 là bản kế hoạch cho học kỳ đầu tiên:

Bảng 3 – Kế hoạch trong một học kỳ

So với bảng 2 thì bảng 3 chi tiết hơn. Với bảng 3, A sẽ biết làm gì trong học kỳ này. Mỗi học kỳ sẽ có một bản kế hoạch như vậy. Sau khi học kỳ I kết thúc, A sẽ đánh giá lại các kết quả so với bản kế hoạch học kỳ, sau đó dựa vào đó để điều chỉnh, bổ sung bản kế hoạch dài hạn. Từ bản kế hoạch dài hạn, A sẽ phác thảo ra bản kế hoạch cho học kỳ II. Quá trình cứ tiếp tục như thế.
Nhưng bản kế hoạch học kỳ có cần phải chính xác ngay từ đầu không? Điều này tùy thuộc vào A. Nếu A có khả năng lập lịch tốt (lên kế hoạch chính xác cho một khoảng thời gian dài 3 đến 4 tháng), điều đó rất tốt. Ngược lại, A có thể xem bản kế hoạch học kỳ chỉ là cái khung, khi đó, A sẽ cần thêm một bản kế hoạch nữa, đó là bản kế hoạch của từng tuần một.
Cách trình bày bản kế hoạch tuần rất đơn giản, nó tương tự như thời khóa biểu mà bạn thường hay làm khi còn học phổ thông (các ngày trong tuần theo hàng ngang, các giờ trong ngày theo hàng dọc). Chỉ có một khác biệt, mỗi tuần sẽ có một thời khóa biểu riêng. Không nhất thiết thời khóa biểu của 2 tuần liền nhau phải hoàn toàn khác biệt, nhưng chắc chắn chúng không thể giống nhau như hai giọt nước.
Xét một cách đơn giản, quan hệ giữa bản kế hoạch dài hạn và bản kế hoạch học kỳ hoàn toàn giống như quan hệ giữa bản kế hoạch học kỳ với bản kế hoạch tuần. Đó là một bước đệ quy xuống một cấp. Tuy nhiên, bản kế hoạch tuần đã là quá đủ chi tiết. Có lẽ bạn không cần đến bản kế hoạch chi tiết cho từng ngày. Nhưng nếu có thể, tại sao không?
Kế hoạch và tiến trình công việc phải song hành
Nguyên tắc cơ bản để lập kế hoạch học lập là các bản kế hoạch của bạn phải phản ánh đúng với hoàn cảnh của bạn, có như thế thì chúng mới mang tính khả thi. Một bản kế hoạch đầy đủ chi tiết cố định ngay từ đầu, rồi bạn phải theo đó mà làm cho đến hết là không phù hợp với hoàn cảnh học tập của sinh viên. Chúng ta chưa đủ khả năng và kinh nghiệm để làm điều này.
Thay vì vậy, bản kế hoạch chỉ nên bắt đầu với những việc chắc chắn, mà theo đó bạn có thể thực hiện ngay và thực hiện một cách trọn vẹn. Sau đó, dựa vào những gì bạn đã làm, bạn sẽ điều chỉnh và bổ sung lại bản kế hoạch. Tóm lại, có kế hoạch cũng cần được ghi lại trên giấy, hoặc soạn thảo bằng máy vi tính. Thậm chí, nếu bạn biết dùng Microsoft Project thì càng tốt. Nếu chỉ xác định trong đầu, bạn sẽ quên kế hoạch của mình vào một lúc nào đó, và sẽ không có cơ sở để đánh giá lại những gì mình đã làm. Ngoài ra, việc ngồi xuống, phác thảo ra bản kế hoạch của mình sẽ mang lại cho bạn niềm hưng phấn để bắt đầu với công việc mới. Hai quá trình song song là ở đây …
Nhưng hãy cẩn thận, đừng dành quá nhiều thời gian chỉ để viết kế hoạch mà không làm gì cả. Phần lớn thời gian của bạn là để thực hiện những gì bạn đã nêu ra. Đừng làm ngược lại. “Too much scheduling will kill you, if you can’t make up your mind.”
Lời kết
Tôi hy vọng bạn sẽ tìm được điều gì đó bổ ích từ tài liệu này. Dĩ nhiên, việc nén bốn năm rưỡi các kinh nghiệm của nhiều thế hệ sinh viên vào hơn 20 trang giấy không phải là điều dễ dàng. Hơn nữa, không phải mọi điều tôi trình bày ở đây đều hoàn toàn chính xác, và thậm chí còn rất nhiều điều chính xác đã bị tôi bỏ sót không đưa vào đây.
Do đó, tôi hy vọng rằng bạn, miễn là bạn đã, đang, và sinh học tập hay làm việc ở khoa CNTT, bạn có thể đóng góp vào bài viết này. Các góp ý, tranh luận, bổ sung đều được hoan nghênh gửi đến tác giả. Chắc chắn, tôi sẽ thường xuyên cập nhật tài liệu này theo thời gian. Bởi vì, việc học ở khoa CNTT sẽ rất khác đi qua các thế hệ sinh viên. Nhưng, tôi sẽ chỉ có thể làm điều này nếu nhận được sự ủng hộ từ các bạn.
Cuối cùng, chúc bạn và những người bạn thân học tốt ở khoa CNTT.
Đêm khuya văng vẳng tiếng xe cont
Còn có mình ta với cái com
Click chuột, gõ phím mơ rồi tỉnh
Lấy tay che miệng ngáp mấy lần
Ở ngay trước mặt , sách một đống
Tài liệu dưới chân , có mấy tờ
Ngán nỗi đêm qua ngày lại đến
Mà sao học mãi vẫn chưa vào...

Sword
Thành viên


Bài viết: 372
Tâm trạng:
Ngày tham gia: 29 Tháng 4 2009, 10:23 am
Đến từ: Hải Phòng
Giới tính:
Đã cảm ơn: 25 lần
Được cảm ơn: 104 lần trong 60 bài viết
http://tin4a2uneti.tk

Thích

Báo xấu [0]

Gửi một bình luận lên tường nhà kienhl
31/7/2011, 8:52 am
MurSmile
MurSmile

Bệnh than:
Đây không phải là căn bệnh từng gieo rắc kinh hoàng cho nước Mỹ, mà là bệnh than thở. Hầu như mọi sinh viên ở khoa CNTT đều mắc bệnh này. Hãy nghe họ than thở những gì:
Than rằng học ở đây chán quá, khó quá, không thiết thực quá. Nhưng họ lại không trả lời được giảng dạy thế nào để họ không chán, không khó, thiết thực hơn. Họ lại thường so sánh với các trường ngoài, trung tâm bên ngoài, và cả nước ngoài. Vậy thì tại sao họ lại ở đây nhỉ?
Than rằng học mấy năm rồi mà chẳng thấy tiến bộ.
Than rằng không biết làm gì khi ra trường. Thế thì họ đã làm những gì khi ở trong trường?
Họ than thở những điều trên từ học kỳ này sang học kỳ khác, khóa này sang khóa khác.
Bệnh nhát:
Thường thì sinh viên than thở về một môn học nào đó thì cũng sẽ gặp ngay môn đó. Chẳng hạn, bạn than rằng phần cứng rất “oải” thì y như rằng sẽ gặp đồ án phần cứng. Lúc này thì bệnh than biến chứng trở thành bệnh nhát.
Mắc bệnh nhát thì không dám làm điều gì đang ở ngay trước mắt. Không làm nghĩa là chết, nhưng vẫn không dám làm. Có thể nói, họ thà chết chứ không chịu hy sinh. Chẳng hạn, vừa nghe nói môn Toán rời rạc là môn “sát thủ”, họ đã buông súng ngay từ tuần lễ đầu tiên của học kỳ. Thế là rớt cả lũ, họ lại truyền đạt điều trên cho các đàn em yếu bóng vía …
Hoặc, có quá nhiều lựa chọn nên cũng không dám chọn và làm một cái nào. Cuối cùng thì loay hoay mãi không biết mình nên chuyên phần cứng hay phần mềm, nên học C++ hay Java. Nếu họ chịu làm điều gì đó thì dù chưa chọn được đúng ý mình, trong trường hợp xấu nhất họ cũng biết được rằng mình không phù hợp với phần cứng, cũng không phù hợp với C++. Bây giờ thì còn Java để thử tiếp.
Bệnh hời hợt:
Nhưng nếu bị buộc phải chọn lựa do hoàn cảnh thúc ép, họ sẽ làm một cách hời hợt. Chẳng hạn, nhận phải một đồ án xương xẩu, họ nghĩ thôi thì làm qua loa cho xong rồi học kỳ sau sẽ tìm được cái ngon hơn. Ai chắc rằng sẽ có cái ngon hơn, hay lại phải gặp cái mà họ cứ cho là xương xẩu? Làm qua loa thì mãi sẽ không bao giờ thoát được cái vòng luẩn quẩn đó, nó còn tước mất cơ hội để mình thấy được điều đó thật ra cũng không xương xẩu như mình nghĩ.
Bệnh hời hợt ngăn cản ta đạt đến đỉnh cao trong một môn học nào đó. Nếu học một môn học mà việc kết quả cao, thấp, đậu, rớt, chương trình học, bài tập lớn không làm bạn có bất kỳ cảm xúc nào, chỉ đơn giản là đã qua được nó, thì bạn đã đánh mất cơ hội của mình. Cần nhớ rằng, giáo trình học, giảng viên môn học đó có thể chưa làm bạn hài lòng, nhưng bản thân môn học đó là thực sự cần thiết. Học hời hợt chỉ vì không hợp với giảng viên, điều đó có nên hay không?
Bệnh la lối:
Bệnh này thường xuất phát từ bệnh hời hợt, nó cũng tương tự như bệnh than nhưng sự bộc lộ phát rất dữ dội. Sau khi loay hoay mãi trong cái vòng luẩn quẩn trên, họ kết tội cái đồ án đã làm hại họ, bộ môn này đã kìm hãm họ, nhà trường đã không tạo môi trường thuận lợi cho họ. Thế mà, họ không nhìn xem những người khác đã làm gì để không rơi vào tình trạng như họ, hoặc những người khác đã làm gì để vượt qua tình trạng đó.
Bệnh la lối là nguy hiểm nhất. Nó hủy hoại người bệnh một cách tàn khốc. Bệnh này cũng khó chữa nhất, nhất là khi nó đã vào thời kỳ cuối, ăn sâu vào tính cách của mỗi người.
Bệnh lười:
Bệnh này là nguồn gốc gây ra 4 căn bệnh đã kể trên. Lười biếng tức là đã tự đặt mình vào tình thế bị động. Không thường xuyên làm bài tập sẽ làm cho kết quả thi thấp, thậm chí bị rớt. Không chịu đọc sách, không chịu mày mò sẽ làm cho kiến thức nghèo nàn đi. Và thế là mắc phải bệnh than. Cũng vì lười biếng mà bệnh than chuyển thành bệnh nhát, rồi bệnh hời hợt, bệnh la lối. Bệnh lười lại dễ lây nhất. Mình lười biếng sẽ làm cho bạn của mình bị ảnh hưởng theo. Ngược lại, bạn mình siêng năng thì mình cũng siêng năng hơn.

Mấy cái bệnh này ở đâu cũng thấy :tu47:

Thích

Báo xấu [0]

Gửi một bình luận lên tường nhà MurSmile
31/7/2011, 9:29 am
kienhl
kienhl

Khắc phục được bệnh thì ta sẽ học tốt hơn đó, Chúc các bạn thành công!
http://tin4a2uneti.tk

Thích

Báo xấu [0]

Gửi một bình luận lên tường nhà kienhl
7/8/2011, 11:04 pm
tinhbandep
tinhbandep

t ghét nhất là đọc huhu!!
:ueu:

Thích

Báo xấu [0]

Gửi một bình luận lên tường nhà tinhbandep
12/8/2011, 11:25 pm
Mr.Sét
Mr.Sét

dài mờ măy..chả mún đọc

Thích

Báo xấu [0]

Gửi một bình luận lên tường nhà Mr.Sét
13/8/2011, 12:10 pm
LenhHoXung
LenhHoXung

Sét quả là phũ đó ha! Sư Huynh nhìn thấy dài dài nê đánh giá cao đấy! chẳng biết có ra mẹ gì không nhưng huynh sẽ cố gắng đọc
🇮🇹

Thích

Báo xấu [0]

Gửi một bình luận lên tường nhà LenhHoXung

Thích

Báo xấu [0]

Gửi một bình luận lên tường nhà Sponsored content

Về Đầu TrangThông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

« Xem bài trước | Xem bài kế tiếp »

Bài viết mới cùng chuyên mục

    Bài viết liên quan với Làm sao để học tốt CNTT

      Quyền hạn của bạn:

      Bạn không có quyền trả lời bài viết